KINH GIÀ-LAM

 

(Trung A-hàm, Phẩm 2: Tương Ưng Nghiệp)

 

Tuệ Sỹ dịch

 

(nguồn: phatviet.com)

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời Đức Phật trú tại Già-lam viên (1), cùng đại chúng Tỳ-kheo, đến Ki-xá Tử (2), trụ trong vườn Thi-nhiếp-ḥa (3), phía Bắc thôn Ki-xá Tử.

Bấy giờ những người Già-lam ở Ki-xá Tử nghe đồn Sa-môn Cù-đàm thuộc ḍng họ Thích, đă từ bỏ ḍng họ Thích, xuất gia học đạo, đang trú tại Già-lam viên, và cùng đại chúng Tỳ-kheo đến Ki-xá Tử này, trụ trong rừng Thi-nhiếp-ḥa ở phía Bắc thôn Ki-xá Tử. Vị Sa-môn Cù-đàm ấy có tiếng tăm lớn, truyền khắp mười phương rằng: ‘Sa-môn Cù-đàm là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vị ấy ở trong thế gian này giữa Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ loài người cho đến loài trời, tự tri tự giác, tự tác chứng, thành tựu và an trụ. Pháp mà vị ấy thuyết, khoảng đầu thiện, khoảng giữa thiện, cứu cánh cũng thiện, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh thanh tịnh trọn đủ’. Nếu gặp được Đức Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác để tôn trọng, lễ bái cúng dường, thừa sự, th́ sẽ được nhiều thiện lợi. Chúng ta hăy cùng nhau đến gặp Sa-môn Cù-đàm để lễ bái, cúng đường”.

Những người Già-lam ở Ki-xá Tử, nghe như vậy rồi, mỗi người cùng với quyến thuộc của ḿnh kéo nhau ra khỏi Ki-xá Tử, đi về phía Bắc, tới rừng Thi-nhiếp-ḥa. Họ muốn gặp Đức Thế Tôn để lễ bái cúng dường.

Đi đến chỗ Phật ngụ, những người Già-lam ấy hoặc có người lễ bái cúi đầu dưới chân Phật rồi ngồi sang một bên, hoặc có người chào hỏi Đức Phật rồi ngồi sang một bên, hoặc có người chắp tay hướng đến Phật rồi ngồi sang một bên, hoặc có người từ đàng xa thấy Đức Phật rồi im lặng ngồi xuống.

Lúc đó, những người Già-lam đều ngồi yên. Đức Phật thuyết pháp cho họ, khai thị, giáo giới, khiến cho hoan hỷ, được lợi ích. Sau khi bằng vô lượng phương tiện thuyết pháp, khai thị, giáo giới, khiến cho hoan hỷ, được lợi ích, Ngài ngồi im lặng.

Bấy giờ những người Già-lam sau khi được Đức Phật thuyết pháp, khai thị, giáo giới, khiến cho hoan hỷ, được lợi ích, họ đều từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa áo trịch vai bên hữu, chắp tay đến hướng Đức Phật, rồi bạch Đức Thế Tôn rằng:

“Thưa Cù-đàm, có một vị Sa-môn, Bà-la-môn đi đến Già-lam chỉ tự khen ngợi tri kiến của ḿnh mà chê bai tri kiến của người khác. Thưa Cù-đàm, lại có một vị Sa-môn, Bà-la-môn đi đến Già-lam cũng chỉ tự khen ngợi tri kiến của ḿnh mà chê bai tri kiến của kẻ khác. Thưa Cù-đàm, chúng tôi nghe vậy liền sanh nghi hoặc: Những vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy, vị nào thật? Vị nào hư?” (4)

Đức Thế Tôn nói rằng:

“Này các người Già-lam, các người chớ sanh nghi hoặc. (5) V́ sao vậy? V́ nhân có nghi hoặc liền sanh ra do dự. (6) Này các người Già-lam, các người tự ḿnh không có tịnh trí để biết có đời sau hay không có đời sau. Này các người Già-lam, các người cũng không có tịnh trí để biết điều đă làm có tội hay không có tội. Này các người Già-lam, nên biết các nghiệp có ba cái là nguyên nhân, là sự tập khởi, là căn bản là duyên của nó (7). Những ǵ là ba? Này các người Già-lam, tham là nhân, là tập, là bản, là duyên của các nghiệp. Này các người Già-lam, nhuế và si là nhân, là tập, là bản, là duyên của các nghiệp.

“Này các người Già-lam, người có tham bị tham che lấp, (8) tâm không nhàm đủ, hoặc sát sanh, hoặc lấy của không cho, hoặc hành tà dâm, hoặc biết mà nói dối, hoặc lại uống rượu. Này các người Già-lam, người có nhuế bị nhuế che lấp, tâm không nhàm đủ, hoặc sát sanh, hoặc lấy của không cho, hoặc hành tà dâm, hoặc biết mà nói dối, hoặc lại uống rượu. Này các người Già-lam, người có si bị si che lấp, tâm không nhàm đủ, hoặc sát sanh, hoặc lấy của không cho, hoặc hành tà dâm, hoặc biết mà nói dối, hoặc lại uống rượu.

“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa ĺa việc giết hại, dứt bỏ sự giết hại, dẹp bỏ dao gậy; có tàm, có quư, có tâm từ bi, làm lợi ích cho tất cả, cho đến côn trùng. Vị ấy đối với sự sát sanh, tâm đă trừ sạch.

“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa ĺa việc lấy của không cho, đoạn trừ việc lấy của không cho; vui vẻ trong việc nhận của được cho, thường ưa sự bố thí, vui vẻ không keo kiệt, không mong người kia đền trả. Vị ấy đối với việc lấy của không cho, tâm đă trừ sạch.

“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa ĺa việc phi phạm hạnh, đoạn trừ việc phi phạm hạnh; siêng tu phạm hạnh, siêng tu diệu hành, thanh tịnh, không uế, ly dục, đoạn dâm. Vị ấy đối với việc việc phi phạm hạnh, tâm đă trừ sạch.

“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa ĺa việc nói dối, đoạn trừ sự nói dối; nói lời chân thật, ưa thích sự chân thật, an trụ nơi chân thật không di động, tất cả những điều vị ấy nói đều đáng tin, không lừa gạt thế gian. Vị ấy đối với việc nói dối, tâm đă trừ sạch.

“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa ĺa sự nói hai lưỡi, đoạn trừ việc nói hai lưỡi, không phá hoại kẻ khác, không nghe nơi người này nói lại người kia muốn phá hoại người này, không nghe nơi người kia nói lại với người này muốn phá hoại người kia; những người xa ĺa nhau th́ muốn kết hợp lại, thấy người kết hợp lại th́ vui vẻ, không kết bè đảng, không khen việc kết bè đảng. Vị ấy đối với việc việc nói hai lưỡi, tâm đă trừ sạch.

“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa ĺa việc nói thô ác, đoạn trừ việc nói thô ác. Nếu có những lời mà từ khí thô bạo, âm thanh hung dữ trái tai, mọi người không vui, mọi người không ưa, làm cho người khác khổ năo, làm cho họ không được an ổn, vị ấy đoạn trừ những lời nói như vậy. Nếu có những lời ḥa nhă dịu dàng, xuôi tai, đi sâu vào ḷng người, đáng thích, đáng yêu, làm cho người kia an lạc, âm thanh vừa đủ rơ ràng, không làm cho người kia sợ sệt, làm cho người kia được an ổn, vị ấy nói những lời như vậy. Vị ấy đối với việc nói lời thô ác, tâm đă tịnh trừ.

“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa ĺa lời nói phù phiếm, đoạn trừ lời nói phù phiếm; nói đúng lúc, đúng sự thật, nói đúng pháp, nói đúng nghĩa, nói về tịch tĩnh, ưa nói về tịch tĩnh, hp vic, hp thi, thích nghi, khéo dy dỗ, khéo quở rầy. Vị ấy đối vi vic nói phù phiếm, tâm đă tnh tr.

“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa ĺa tham lam, đoạn trừ tham lam, không ôm ḷng năo hại, thấy của cải và các nhu cầu sinh sống của người khác không móng ḷng tham lam, muốn cho được trở về ḿnh. Vị ấy đối với việc tham lam tâm đă tịnh trừ.

“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa ĺa sân nhuế, đoạn trừ sân nhuế, có tàm, có quư, có tâm từ bi, làm lợi ích cho tt cả, cho đến loài côn trùng. Vị ấy đối vi sân nhuế tâm đă tnh tr.

“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử xa ĺa tà kiến, đoạn trừ tà kiến, thc hành chánh kiến, không điên đảo; thy như vậy, nói như vậy: ‘Có sự bố thí, có sự trai phước, và cũng có chú thuyết, có nghip thin ác, có nghip báo thin ác. Có đời này và đời sau. Có cha, có mẹ, trên đời có nhng bc chân nhân đi đến thin xứ, khéo vượt qua, khéo hướng đến, trong đời này và đời sau mà tự tri tự giác, tự tác chứng thành tu và an trụ. Vị ấy đối vi vic tà kiến, tâm đă tnh tr.

“Này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử thành tựu tnh nghip nơi thân, thành tu tnh nghip nơi khu và ư. Xa ĺa nhuế, xa ĺa năo hại, trừ bỏ thùy miên, không trạo cử, cống cao, đoạn trừ nghi, vượt qua mn, chánh nim, chánh trí, không có ngu si; tâm vị ấy tương ng vi từ, biến măn mt phương, thành tu và an trụ. Cũng vy, trong hai, ba, bn phương, tứ duy, thượng, hạ, cùng khắp tt cả, tâm tương ng vi từ, không thù, không oán, không sân nhuế, không năo hại, rt rng ln, vô lượng, khéo tu tp, biến măn tt cả thế gian, thành tựu và an trụ. Cũng vy, tâm bi, hỷ; tâm tương ng vi xả, không thù không oán, không sân nhuế, không năo hại, rng ln vô lượng, khéo tu tp, biến măn tt cả thế gian, thành tựu và an trụ. Cũng vy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không sân nhuế, không năo hại, lin được bn trụ xứ an ổn (9). Nhng ǵ là bn?

“‘Nếu có đời này đời sau, có quả báo của nghip thin và ác. (10) Khi ta đă được nghip tương ng vi chánh kiến này ri, ta thọ tŕ đầy đủ, thân hoại mng chung chc chn sanh đến thin xứ, cho đến sanh lên các cơi tri’. Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không sân nhuế, không năo hại; đó là trụ xứ an ổn thứ nhất.

“Lại nữa, này các người Già-lam, ‘Nếu không có đời này và đời sau, không có quả báo của nghiệp thiện và ác.” (11) Như vậy, ta ở ngay trong đời này không phải do cớ ấy mà bị người khác bài bác; nhưng lại được bậc chánh trí khen ngợi, người tinh tấn, người có chánh kiến nói là có’. Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không năo hại, đó là được trụ xứ an ổn thứ hai.

“Lại nữa, này các người Già-lam, ‘Nếu có tạo tác ǵ, chắc chắn ta không có tạo ác, (12) ta không niệm ác. V́ sao vậy? V́ tự ḿnh không tạo ác, khổ do đâu mà sanh?’ Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không năo hại; đó là trụ xứ an ổn thứ ba.

“Lại nữa, này các người Già-lam, ‘Nếu có tạo tác, chc chn ta không to ác, nhưng ta không phm đời, dù kẻ sợ hay kẻ không sợ, (13) luôn luôn nên thương xót tt cả thế gian, tâm ta không tranh chấp vi tt cả thế gian, không vẩn đục, nhưng hân hoan’. Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không năo hi; đó là trụ xứ an ổn thứ tư.

“Như vậy, này các người Già-lam, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không sân hn, không năo hi; đó được bn trụ xứ an ổn”.

Những người Già-lam bạch Phật:

“Thưa Cù-đàm, đúng vậy, Đa văn Thánh đệ tử tâm không thù, không oán, không sân nhuế, không năo hại, liền được bốn trụ xứ an ổn. Những ǵ là bốn?

“‘Nếu có đời này đời sau, có quả báo của nghiệp thiện và ác. Khi ta đă được nghiệp tương ứng với chánh kiến này rồi, ta thọ tŕ đầy đủ, thân hoại mạng chung chắc chắn sanh đến thiện xứ cho đến sanh lên các cơi trời’. Như vậy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không sân nhuế, không năo hại; đó là trụ xứ an ổn thứ nhất.

“Lại nữa, thưa Cù-đàm, ‘Nếu không có đời này và đời sau, không có quả báo của nghiệp thiện và ác. Như vậy, ta ở ngay trong đời này không phải do cớ ấy mà bị người khác bài bác; nhưng lại được bậc chánh trí khen ngợi, người tinh tấn, người có chánh kiến nói là có’. Như vậy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không năo hại, đó là được trụ xứ an ổn thứ hai.

“Lại nữa, thưa Cù-đàm, ‘Nếu có tạo tác ǵ, chc chn ta không có to ác, ta không nim ác. V́ sao vy? V́ tự ḿnh không tạo ác, khổ do đâu mà sanh?’ Như vậy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không năo hi; đó là trụ xứ an ổn th ba.

“Lại nữa, thưa Cù-đàm, ‘Nếu có tạo tác, chc chn ta không to ác, ta không phm đời sợ hay không sợ, luôn luôn nên thương xót tt cả thế gian, tâm ta không tranh chấp vi tt cả thế gian, không vẩn đục, nhưng hân hoan’. Như vậy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không năo hi; đó là trụ xứ an ổn thứ tư.

“Như vậy, thưa Cù-đàm, Đa văn Thánh đệ tử tâm không kết, không oán, không sân hn, không năo hi; đó được bn trụ xứ an ổn.

“Thưa Cù-đàm, chúng con đă biết. Bch Thin Thệ, chúng con đă hiu. Bch Thế Tôn, chúng con trọn đời tự quy y với Pht, Pháp và Chúng T-kheo. Duy nguyn Thế Tôn chấp nhn cho chúng con làm Ưu-bà-tắc, bt đầu từ hôm nay, trọn đời tự quy y, cho đến lúc mng chung”.

Phật thuyết như vậy. Tất cả những người Già-lam và các Tỳ-kheo sau khi nghe Phật thuyết, hoan hỷ phụng hành.

 

_______________

 Cước chú:

(1) Già-lam viên 伽藍園. Pāli, A. i. 189: tại thị trấn của những người Kālāma tên là Kesaputta, ở Kosala.

(2) Ki-xá tử 羈舍子; Pāli: Kesaputta, xem cht. trên.

(3) Thi-nhiếp-ḥa lâm 尸攝惒林. Pāli: Siṃsapā.

(4) Pl.: ahudeva kaṇkhā, ahudeva vicikicchā, “(chúng tôi) hoài nghi và phân vân!”

(5) Hán: mạc sanh nghi hoặc 莫生疑惑. Cf. Pāli, A. i. 188: alañhi vo, kālāmā, kaṅkhituṃ alam vicikicchium. Bất biến từ alaṃ ở đây thường hiểu theo nghĩa khẳng định: “Thích hợp thay cho các ngươi, những người Kālāmā, để mà hoài nghi!” Nhưng bản Hán hiểu theo nghĩa tiêu cực, trong câu cấm chỉ: “Thôi đủ rồi để mà nghi hoặc!” Nghĩa là, chớ có hoài nghi! Đoạn trả lời của Phật tiếp theo trong bản Pāli là đoạn kinh nổi tiếng, rất nổi tiếng, về sự không chấp nhận giáo điều, cho nên, ở đây Phật chấp nhận thái độ hoài nghi đối với những giáo thuyết mà ḿnh được nghe. Bản Hán như vậy đă làm mất ư nghĩa thâm thư của đoạn kinh, cho nên lược qua không nhấn mạnh như sẽ ṭhấy.

(6) Pl.: kaṅkhanīyeva… vicchikicchā uppannā.

(7) Hán: tập nhân bản hữu 因習本有; tức nhân, tập, duyên, sanh: bốn hành tướng của những cái làm nguyên nhân. Pāli, thành cú: esva hetu etaṃ nidānaṃ esa samudayo esa paccayo, đó là nhân, là (bản) duyên, là tập (khởi), là duyên (sinh).

(8) Pl. ibid.: luddho purisapuggalo lobhena abhibhūto, người xan tham bị tham lam khống chế.

(9) Hán: an ổn trú xứ 安穩住處: tô tức xứ.  Pāli: assāsa, sự nghỉ ngơi (lấy lại hơi thở quân b́nh), sự b́nh an.

(10) Pl.: sace kho pana atthi paraloka, giả sử có thế giới khác (đời sau).

(11) Pl.: sace kho pana natthi paraloko, natthi sukatadukatānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko, giả sử không có thế giới khác, không có quả dị thục của những nghiêp thiện hay bất thiện.

(12) Pl. : sace kho pana karoto karīyati pāpaṃ, na kho panāhaṃ kassaci pāpaṃ cetemi, “giả sử có làm điều ǵ ác, nhưng ta không có ư ác đối với bất cứ ai.”

(13)  Hán: bố dữ bất bố 怖與不怖, chỉ người run sợ tức kẻ yếu, và người vững vàng tức kẻ mạnh. Pāli: yvāhaṃ na kiñci vyābādhemi tasaṃ vā thāvaraṃ vā, ta không làm hại cái ǵ cả, dù đông vật hay bất động vật.

 

 

 


 
Bài vở đóng góp xin gửi về: baivochanhphap@gmail.com
Copyright © 2009 Chanh Phap Newspaper
Last modified: 07/04/10