ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO

ĐỐI VỚI NHÂN LOẠI 

Nguyên tác: T.T Nyanatiloka Maha Thera

Chuyển ngữ: H.T. Thích Trí Chơn

 

 

Khoảng vài ba mươi năm trước đây, bất cứ người nào ở các nước Tây Phương có cảm t́nh với Phật giáo đều được coi là hạng người thiếu suy xét. Vào thời đó, người ta c̣n xem đạo Phật đại để như một tôn giáo đầy màu sắc thần bí lẫn mê tín dị đoan và không ai tin rằng Phật giáo sẽ có thể đóng một vai tṛ quan trọng trong sự hướng dẫn đời sống tinh thần cho các dân tộc Tây Phương như hiện nay. Có nhiều người Âu Châu, phần đông thuộc các tín ngưỡng đối lập, đă chỉ trích xuyên tạc Phật giáo, cũng như đă cố gắng thuyết minh cho những bạn bè của họ tin rằng ảnh hưởng của Phật giáo rất tai hại v́ nó gieo rắc tư tưởng bi quan yếm thế cho con người. Do đó, dưới mắt họ, Phật giáo là một chướng ngại nguy hiểm cho mọi hoạt động xă hội và phát triển quốc gia. Tuy nhiên, những người có hiểu biết đạo Phật ít nhiều hoặc đă từng sống ở các quốc gia thuần túy theo Phật giáo chẳng hạn như Miến Điện, Thái Lan, nơi mà dân chúng cảm thấy cuộc sống hầu như được an lành và hạnh phúc nhất trên thế giới th́ họ sẽ nhận thấy ngay những lời phê b́nh trên về Phật giáo của một số người Tây Phương là hoàn toàn vô căn cứ, sai hẳn sự thật.

Dưới đây, chúng ta sẽ thấy rằng, một học thuyết cao siêu toàn hảo như Phật giáo có thể gây nên những ảnh hưởng tốt đẹp cho tâm tính con người và đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho xă hội, quốc gia. Phật giáo luôn nhắc nhở con người nên tin ở ḿnh, tinh tấn tu hành để tự giải thoát. Thật chưa có tôn giáo nào xác nhận tinh tấn là động lực chính giúp con người vươn đến cơi toàn thiện và trái lại giải đăi (biếng nhác) là nguyên nhân khiến con người phải sa đọa khổ đau như Đức Phật đă dạy:

“Tinh tấn là đường dẫn đến Niết Bàn,

Giải đăi và tŕ hoăn là đường về sanh tử”

Chỗ khác đức Phật bảo: “Này các Tỳ Kheo! Nhờ ư chí cương quyết thiền định mà Ta đă giác ngộ và cũng do bởi sự tinh tấn chuyên tu mà Ta đă được giải thoát hoàn toàn. Hỡi các Tỳ Kheo! Nếu các con biết tinh tấn tu hành, không bao lâu các con cũng sẽ chứng được quả Bồ Đề Vô Thượng. Và trước khi nhập Niết Bàn, trong lời di chúc cuối cùng Đức Phật cũng dạy: “Các con hăy nỗ lực tinh tấn để tự giải thoát”. Bởi thế, trên đường tu tập, người Phật tử luôn luôn trông cậy vào sự cố gắng của chính ḿnh. Họ không ỷ lại vào một ngoại lực nào, v́ họ thừa hiểu rằng không một ai, dù là đấng có quyền phép đến đâu có thể cứu giúp cho họ thoát khỏi được trong đời hiện tại, những nghiệp quả khổ đau mà họ đă lỡ gieo nhân từ tiền kiếp. Cho nên, ”Lành do ta mà dữ cũng do ta. Tịnh hay bất tịnh đều bởi ta. Không ai có thể làm cho người khác thanh tịnh được”.

Phật giáo dạy rằng, mỗi chúng ta phải chịu trách nhiệm lấy những hành động thiện hoặc ác mà chúng ta đă gây ra và cuộc đời hạnh phúc hay đau khổ cũng do tự bàn tay chúng ta xây dựng lấy. V́:  “Mọi hành động xấu đều không phải do cha mẹ, bạn bè của ta gây nên mà bởi ta đă tạo ra, cho nên chính ta phải gặt lấy những kết quả đau khổ đó”. Người Phật  tử biết rằng không phải hoàn toàn ỷ lại vào sự giúp đỡ của đức Phật, Giáo Hội, hay của chư Tăng mà ḿnh có thể giải thoát được, nên người Phật tử buộc phải trông cậy vào nỗ lực tu tập nơi chính bản thân để tự cứu lấy ḿnh. Nhờ thế mà họ đạt được cao độ của tinh thần tự tín. Cũng không ai chối căi được rằng, sự tin tưởng vào một đấng Thượng Đế hay bất cứ một năng lực tưởng tượng nào đều làm con người mềm yếu, mất hết đức tính tự tin và tự trách nhiệm. Trong khi đó trái lại, kẻ biết tự tin vào năng lực của chính ḿnh họ sẽ trở nên cương quyết và mạnh mẽ.

Không những Phật giáo đă làm phát triển đức tánh tự tin nơi con người mà c̣n khuyên con người phải sáng suốt trước khi tin một điều ǵ. Phật giáo phủ nhận lối tin vào những tập tục mù quáng hay những quyền lực vu vơ. Muốn đạt được chân lư, giải thoát mọi khổ đau, con người phải tin tưởng vào khả năng giác ngộ và thiền định nơi chính ḿnh. Đức Phật dạy: “Đừng tin vào một điều ǵ dầu điều ấy là lời khẩu truyền hay những tập quán. Đừng tin theo điều ǵ dù điều ấy do một bậc Thầy dạy lại. Những điều nào các con tự xét thấy là sai lầm, xấu xa sẽ gây đau khổ cho các con và mọi người khác th́ các con hăy đừng tin theo. Một học thuyết nêu cao khả năng giác ngộ của con người như thế không thể nào gây ảnh hưởng tại hại cho nhân loại được.

Những tôn giáo phủ nhận lư trí cá nhân, buộc tín đồ mù quáng tin vào thần quyền, giáo điều hoặc những lễ nghi tập tục sai lầm, mới thật đưa con người vào con đường mê tín dị đoan, phá sản xă hội. Cho nên tinh thần con người chỉ tiến bộ được khi họ có tự do tư tưởng. Và ai cũng nhận thấy rằng, ḷng tin mù quáng vào giáo điều, tín ngưỡng đă gây nên ở con người bệnh cố chấp và ḷng phân chia hẹp ḥi ích kỷ. Ngày nay họ c̣n nhớ tới xă hội thời Trung cổ (Middle Ages) với những h́nh phạt tra tấn, thiêu đốt chém giết, tàn sát con người một cách dă man cùng những cuộc Thánh chiến rùng rợn. Tất cả những hành động phi nhân này đều là kết quả của ḷng tin cuồng nhiệt vào giáo điều của những tôn giáo Thần quyền. Nói tóm, mọi chủ trương độc tài tín ngưỡng và tàn bạo bao giờ cũng đưa xă hội con người đến cảnh suy vong, man rợ, phản tiến hóa vậy.

Trái lại, một nền tiến bộ tự do và ḥa b́nh trong sự phát triển xă hội, đạo đức, kiến thức, nghệ thuật, khoa học và triết học chỉ có thể xuất hiện trong một quốc gia biết tôn trọng đức tánh khoan dung cũng như tự do tư tưởng con người. Và không thể thực hiện được trong một quốc gia mà nơi đó có sự kỳ thị về tôn giáo, chính trị hay sự tự do của con ngựi bị bóp chết hoàn toàn. Bây giờ điều trên hết để giúp chúng ta phát triển đức tánh khoan dung này trong nhân loại là ḷng từ bi, mà theo Phật giáo nó là nền tảng luân lư để xây dựng cho mọi sự tiến bộ xă hội và đạo đức con người. Đúng vậy, dân chúng những quốc gia thật sự theo Phật giáo đều thấm nhuần tinh thần từ bi này. Nó không phải là kết quả của đức tin mù quáng vào những giáo điều cố định mà là kết quả của sự hiểu biết chân chính rằng, tất cả chúng sanh từ loài người đến côn trùng đều có tương quan mật thiết: “Ta là tất cả chúng sanh, tất cả chúng sanh là ta”.

Bởi sự sống của ta với sự sống của mọi chúng sanh là một, nên con người không có quyền sát hại bất cứ sinh mạng nào. Không có tôn giáo nào trên thế giới đề cập đến ḷng từ bi như Phật giáo. Nó thể hiện qua những lời kinh chân thành mà thường nhật chư Tăng tụng đọc với mục đích cầu nguyện cho chúng sanh không phân biệt chủng loại luôn thoát khổ được vui. Cho nên, tại các nước Phật giáo, kinh Từ Bi (Metta Sutta) đă được dùng tụng hàng ngày hai buổi sáng tối cho tất cả hàng chư Tăng, Đại Đức cũng như hàng Thượng Tọa, lớn cũng như nhỏ mà tôi xin trích một đoạn ngắn dưới đây:

Như bà mẹ chăm sóc bảo vệ hết sức đứa con độc nhất của ḿnh.

Làm thế khi chúng ta đối với tất cả chúng sanh,

Hăy phát tâm từ bi rộng lớn,

Tràn khắp vũ trụ bao la,

Trên dưới mọi nơi,

Không c̣n những tâm niệm hận thù ganh ghét …..”.

Trong khi đó, những kẻ cuồng tín tin vào Thần quyền lại khuyên tín đồ: Hăy giết chết những kẻ thù của anh bất cứ nơi nào anh gặp chúng. Hăy tắm chúng trong máu đào bởi đó là h́nh phạt dành cho những kẻ bất tín”.  Hay là “Hăy chiến đấu chống lại những kẻ thù của anh cho đến khi chúng chịu đầu hàng, cho đến khi nào chúng chịu tôn thờ Thượng Đế. Phải bắt chúng chịu mọi sự đau khổ của sự trả thù” Như vậy, chúng ta thấy rằng ở đâu lời khuyên răn tàn bạo được chấp nhận th́ nơi đó sẽ phát sanh những ảnh hưởng tai hại của sự cuồng tín, độc ác và có thể gây cho thế giới con người sự đau khổ và âu lo khủng khiếp. Điều ai cũng thấy là ḷng từ bi và đức tánh khoan dung nói trên thường được nhắc đến trong các kinh điển Phật giáo, một đặc điểm mà ở các kinh sách những tôn giáo khác rất khó t́m thấy.

 Thật vậy, chưa có nhà truyền giáo tên tuổi nào của Phật giáo có ư tưởng phỉ báng hay sân hận chống đối những kẻ khác tín ngưỡng với ḿnh, và cũng không bao giờ có sự kỳ thị về tôn giáo quốc gia hay chính trị nơi một dân tộc đă thực sự thấm nhuần chân tinh thần từ bi của Phật giáo. Nhờ thế mà không cần đến súng đạn hay giáo gươm, Phật giáo vẫn chinh phục được tâm hồn của hàng trăm triệu người trên thế giới. Trong lịch sử, như chúng ta đă biết, từ lúc Phật c̣n ở đời cho đến hôm nay, chưa có một giọt máu nào đă chảy nhân danh đức Phật hay bởi sự truyền bá giáo lư của Ngài. Nhưng với các tôn giáo khác th́ sao? Thật không thể nào dẫn chứng hết ở đây tất cả những phương tiện man rợ mà một vài tôn giáo đă dùng đến để truyền bá đạo lư của họ.

Hơn nữa, Phật giáo cũng dạy rằng đức tin và những h́nh thức phát triển bên ngoài không hẳn hoàn toàn giúp người Phật tử đạt đến sự giác ngộ giải thoát và truyền bá Phật giáo bằng vũ lực có nghĩa là bành trướng những đức tính công b́nh và t́nh thương bằng hành động bất công và tàn bạo. Người Phật tử không xem sự cải giáo của tha nhân là quan trọng. Với một kẻ tự nhận ḿnh là Phật tử hay không, điều ấy không mấy cần thiết đối với họ, bởi người Phật tử biết rằng, chỉ có chính bản thân họ học hiểu và thực hành giáo lư, họ mới đến gần được cứu cánh giải thoát của đức Phật.

Người Phật tử chỉ muốn tạo sự an lạc cho những kẻ khác bằng cách hướng dẫn họ trở về với ánh sáng đạo đức, trí tuệ cùng chỉ cho họ một con đường giải thoát khỏi mọi khổ đau mà thôi. Và ngay từ xưa, tinh thần từ bi này cũng đă ảnh hưởng mạnh mẽ đến các dân tộc theo Phật giáo, khiến dân chúng thực hiện được nhiều công tác từ thiện hữu ích như thiết lập trên các quốc lộ những nhà tạm trú miễn phí cho khách bộ hành mỏi mệt, hoặc cung cấp thức ăn, nước uống cho người và vật; xây cất những nhà thương thí và phát thuốc không cho các bệnh nhân v.v…

Như vậy, có thể nói rằng thay v́ gây ảnh hưởng tai hại cho loài người—như các quốc gia Tây Phương thường bày tỏ--trái lại, Phật giáo là một trong những tôn giáo của thế giới bao hàm nhiều phương pháp tốt đẹp nhất, có thể cải thiện và giáo dục tâm tánh con người. Nó đánh thức nơi con người đức tính tự trọng và tinh thần trách nhiệm bản thân. Phật giáo c̣n khích lệ sự tiến bộ tinh thần bằng cách tán dương năng lực suy tưởng của chính con người. Nó phổ biến trong nhân loại đức tánh khoan dung và giúp cho loài người thoát khỏi bệnh cuồng tín cố chấp hẹp ḥi v́ tín ngưỡng quốc gia. Nó phát huy trong nhân loại đức tính từ bi, t́nh huynh đệ, cùng dứt trừ được nơi con người ḷng sân hận và bạo tàn.

Nói tóm, Phật giáo đă nêu cao tinh thần tự tín bằng cách dạy rằng số phận con người nằm trong tay của nó, và chính con người có đủ t́ềm lực để phát triển những đức tánh tốt đẹp, hầu đạt đến qủa vị giải thoát, chứ Thượng Đế và đức Phật không bao giờ có thể giúp con người điều ấy. Cho nên, tự trọng, tự tín, khoan dung, từ bi, trí tuệ là những đức tánh tốt đẹp có thể tạo được cho nhân loại nhờ ảnh hưởng của Phật giáo. Và trong một quốc gia mà mọi dân chúng đều thấm nhuần những đức tính ấy th́ chắc chắn là hạnh phúc, ḥa b́nh sẽ hiện đến và một quốc gia như thế sẽ là một quốc gia kiểu mẫu cho toàn thế giới, một nhân gian tịnh độ vậy.

 

Trích tập “Influence of Buddhism On A People”

Phát hành tại Tích Lan (Sri Lanka)

 

 


Bài vở đóng góp xin gửi về: baivochanhphap@gmail.com
Copyright © 2009 Chanh Phap Newspaper
Last modified: 02/26/11