ĐỨC  PHẬT  ĐẢN  SANH

Qua thi phẩm “ÁNH SÁNG Á CHÂU”

của Sir Edwin Arnold

 

Trần Phương Lan dịch và chú giải

 

 

Lời người dịch: Đức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đă dạy:” Có một người sinh ra đời v́ an lạc của quần sanh,v́ ḷng thương tưởng đối với đời, v́ lợi ích, an lạc và hạnh phúc của chư thiên và nhân loại. Người ấy là ai? Đó là đức Như Lai, bậc A-la-Hán, Chánh Đẳng Giác” (Kinh Tăng Chi I)

Đức Phật đă xuất hiện ở đời dưới h́nh thức một vị thái tử đầy đủ hảo tướng, tài đức vẹn toàn. Khi trưởng thành, Ngài cũng lập gia đ́nh như một người thường, nhưng sau đó, Ngài muốn t́m giải pháp cho vấn đề sanh tử của đời người, nên Ngài đă làm đại sự xuất thế và đă chứng ngộ chân lư. Ngài trở thành bậc Vô Thượng Giác Ngộ và đem giáo lư của Ngài soi sáng trí tuệ của những ai muốn nghe pháp để tận diệt khổ đau, đạt đến chân hạnh phúc, Niết Bàn bất tử.

Suốt hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, giáo lư của Đức Phật đă đem lại biết bao niềm hạnh phúc cho các dân tộc Châu Á và dần dần được truyền bá rộng khắp năm châu, v́ thế Đức Phật đă trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao công tŕnh văn học nghệ thuật, nghiên cứu, khảo cổ… từ ngàn xưa đến nay. 

Vào cuối thế kỷ thứ 19, sự xuất hiện của thi phẩm Ánh Sáng Á Châu hay sự Xuất Thế Vĩ Đại (The Light of Asia or The Great Renunciation) của Sir Edwin Arnold (1832-1904), là một hiện tượng văn học Anh đặc biệt mang đậm dấu ấn Phật giáo đă gây sự chú ư của giới trí thức đương thời. Thi sĩ này vốn là một nhà quư tộc xuất thân từ trường Đại học King’s College thuộc Viện Đại Học Cambridge và sau đó học ở Viện Đại Học Oxford Luân Đôn, là những ḷ đào tạo trí thức cho giới thượng lưu của cả Âu Châu ngay từ thế kỷ XII. Nhân chuyến công du sang Ấn Độ để làm hiệu trưởng trường Đại học Poona College ở Bombay (1856 - 1861), vị ấy đă đến với đạo Phật và được cảm hoá vào đạo. Kết quả của thời kỳ Đông du ấy đă đạt đỉnh cao nhất với thi phẩm The Light of Asia và nhiều dịch phẩm từ nguyên tác Sanskrit. 

Đặc biệt thi phẩm The Light of Asia được xây dựng quanh chủ đề cuộc đời Đức Phật từ khi Ngài từ cung trời Tusita (Đâu-suất-đà) nhập mẫu thai Hoàng hậu Màyà, rồi sinh ra làm thái tử sống đời vương giả ở hoàng cung cho đến ngày Ngài làm đại sự xuất thế tầm cầu chân hạnh phúc để cứu độ nhân loại. Sáu năm khổ hạnh và trận chiến đấu cuối cùng đầy khốc liệt của đạo sĩ Gotama trước sự tấn công như vũ băo của ma vương và ma quân quanh cội Bồ đề đă diễn ra vô cùng sinh động dưới ng̣i bút tài hoa đầy sáng tạo của thi sĩ cho đến khi Ngài chứng đắc tam minh và liễu ngộ lư duyên khởi của vạn pháp. Ngài trở thành bậc chiến thắng trên chiến trường lúc b́nh minh vừa xuất hiện ở phương Đông, ánh sao mai mờ dần nhường chỗ cho ánh mặt trời ló dạng trước niềm hân hoan của chư Thiên và loài người trên thế giới.

Mặc dù là một người Tây phương sống cách xa thời đức Phật gần hai ngàn năm trăm năm, tác giả tự nhận ḿnh đă thay lời một Phật tử Ấn Độ diễn tả ḷng ngưỡng mộ thành tín sâu xa của ḿnh đối với cuộc đời kỳ diệu của đức Phật và sự nghiệp thuyết pháp độ sanh của ngài qua thi phẩm trữ t́nh này, làm cho nó có một sức hấp dẫn mănh liệt đối với các tầng lớp trí thức Tây phương và đă được dịch ra nhiều ngôn ngữ Tây phương, nên đă góp công rất lớn vào sứ mạng truyền bá đạo Phật ở Âu Châu và đặc biệt ở Anh từ cuối thế kỷ thứ 19 đến nay. 

Thi phẩm chấm dứt với lời phát nguyện quy y Tam Bảo của chính tác giả như bất kỳ một đệ tử thuần thành nào trước Đức Thế Tôn đă đem lại ánh sáng của trí tuệ và từ bi để cứu khổ muôn loài chúng sanh trên thế gian. 

Sau đây là trích đoạn sự kiện đức Phật đản sanh trong phần mở đầu thi phẩm này.

 

Chương một

 

Kinh của Ngài, Phật Thế Tôn cứu độ

Sĩ-đạt-ta là Thái tử giáng trần,

Trong đất, trời, địa ngục chẳng ai bằng

Bậc Tối thắng, Đại từ bi, Trí tuệ

Được tất cả muôn loài đồng kính lễ

Bậc Đạo Sư dạy Giáo pháp Niết bàn.

 

Như vầy Ngài tái thế cứu nhân gian:

Dưới cơi tối cao, Tứ Thiên Vương (1) ngự

Trị thế gian, và dưới đó là miền

Cao nhưng gần, nơi các vị thánh hiền

Sẽ sống lại ba mươi ngàn năm tới

Chầu Đức Phật, trên trời cao chờ đợi

V́ nhân gian, hiện năm tướng giáng sanh,

Nên Chư Thiên hiểu biết các điềm lành

Đồng bảo:” Phật tái sanh giúp thế giới”.

“- Phải, ta đi giúp trần gian, Ngài nói,

Đời cuối cùng qua bao kiếp tử sanh

Đến với ta và kẻ học pháp lành

Ta sẽ xuống giữa Thích-ca (2) bộ tộc

Dưới sườn núi miền nam Hy-mă-lạp (3)

Có thần dân mộ đạo với minh quân”.

Một đêm kia, chánh hậu Tịnh Phạn Vương (4)

Bà Mà-Yà (5), ngủ yên bên chúa thượng,

Thấy mộng lạ: sao từ trời hiện xuống

Sáu hào quang màu hồng ngọc huy hoàng

Từ sao kia là một đại tượng vương

Sáu ngà (6) trắng như sữa thần tham dục (7)

Giữa cơi không, chiếu vào bà lập tức

Nhập mẫu thai bên phải. Tỉnh ǵấc mơ

Diễm phúc siêu phàm tràn ngập long bà

Và nửa cơi đất, hào quang mầu nhiệm.

Ngay trước ban mai, hào quang xuất hiện:

Các đồi cây lay động, sóng ngàn trùng

Lặng yên dần, hoa nở rộ tưng bừng

Như giữa ngọ, tận các miền ngục tối

Niềm hân hoan của bà hoàng chiếu dọi.

Khi mặt trời ấm áp nhuộm màu vàng

Các khu rừng, xuyên tận các đại dương.

Một tiếng th́ thầm dịu dàng vang vọng

“Hỡi các người chết kia, nay phải sống,

Dậy mà nghe, hy vọng: Phật–đà sanh!

Ở Lâm-t́-ni (8) vạn vật an b́nh

Đang trải rộng, tâm thế gian náo nức

Làn gió mát, lạ, lướt qua biển, đất.

Khi b́nh minh ló dạng, chuyện đem tŕnh

Những người đoán mộng tâu: “Chính điềm lành!

Sao con Cua cùng mặt trời tụ hội,

Hoàng hậu sanh một hoàng nam nối dơi,

Bậc Thánh hiền đại tuệ lợi quần sanh

Sẽ giải thoát loài người khỏi vô minh

Hoặc chiếu cố thế gian và ngự trị (9)

      

                         *

Theo cách này, đức Phật–đà giáng thế:

Đúng giữa trưa, Hoàng hậu đứng lâm bồn

Dưới Sa-la (10) đại thọ trong khu vườn,

Thân hùng vĩ, thẳng cao như ngọn tháp,

Dưới tàng lá sum sê, hoa thơm ngát,

Cùng muôn loài, khi biết đă đến thời,

Cây khôn liền uốn nhánh lá  cao vời

Xuống đất để làm mái che Hoàng hậu.

Mặt đất bỗng hiện đủ ngàn hoa báu

Trải tọa sàng. Chuẩn bị tắm hoàng nam

Đá kế gần phun nước suối trong nguồn (11)

Pha lê chảy, mẫu hoàng ôm con trẻ

Thật b́nh an. Ngài vẹn toàn thân thể,

Ba mươi hai tướng tốt báo điềm lành (12)

Tin mừng vui vang đến tận cung đ́nh.

Nhưng khi chúng đem kiệu hoa đến đón

Ngài hồi cung, đám người khiêng đôi cáng

Hoá ra là bốn vị Đại Thiên Vương

Từ núi Tu-di (13) canh giữ bốn phương:

Thần phương Đông có biệt danh Tŕ Quốc (14)

Đoàn tùy tùng khoác xiêm y bằng bạc,

Và mang theo những khiên mộc ngọc trai.

Thần phương Nam,Tăng Trưởng chính tên ngài,

Đoàn kỵ mă, Cưu-bàn-trà đại quỷ,

Cỡi ngựa xanh, mang khiên thanh ngọc quư,

Thần phương Tây là Quảng Mục Thiên Vương (16),

Đoàn quân hầu là các vị Long thần (17)

Cỡi tuấn mă màu máu đào rực rỡ,

Mang các tấm khiên bằng san hô đỏ.

Đa Văn là chúa tể ở Bắc phương (18)

Đoàn Dạ-xoa hộ tống mặc toàn vàng (19)

Cỡi hoàng thố, mang khiên vàng chói sáng.

Các thiên thần vẫn tàng h́nh hiện xuống

Khiêng cáng và mặc y phục thường dân,

Song thật ra là các đại lực thần

Cùng rảo bước cùng phàm nhân hôm đó,

Dù loài người không làm sao biết rơ:

Trên cơi trời tràn ngập nỗi hân hoan

Cũng chỉ v́ hạnh phúc của trần gian

Khi biết Phật Thế Tôn vừa giáng thế.

 

Việc này Tịnh Phạn Vương chưa hiểu nghĩa,

Các điềm kia làm chúa thượng lo âu,

Cho đến khi các người giải mộng tâu

Hoàng tử sẽ cầm quyền khắp cơi thế,

Là một Chuyển luân vương (20) lên ngự trị,

Một ngàn năm mới chỉ có một lần,

Ngài chủ quyền luôn bảy thứ bảo trân (21)

Bánh xe báu, ngọc thần kỳ, tuấn mă,

Ngựa báu sẽ dẫm lên ngàn mây gíó,

Một tượng vương sắc như tuyết trắng ngần

Được sinh ra để chở vị Thánh quân,

Đại thần giỏi và tướng quân vô địch,

Một hoàng hậu với dung nhan toàn bích,

Dáng yêu kiều hơn thần nữ Rạng đông (22)

 

V́ bảy báu kia cùng vị Đông cung,

Vua ra lệnh kinh thành khai đại lễ:

Mọi lối đi được quét chùi sạch sẽ,

Nước hoa hồng được rảy khắp trên đường,

Cây treo đèn, cờ xí rợp mười phương

Trong lúc đó, từng đám đông vui vẻ

Trố mắt nh́n người múa gươm oai vệ,

Bọn làm tṛ, nhữ rắn, bọn leo dây,

Bọn nhào lộn và vũ nữ từng bầy

Váy lấp lánh với chuông rung thánh thót

Như cười nhẹ quanh đôi chân nhảy nhót,

Bọn mang mặt nạ da báo, hươu, nai,

Bọn đá chim, luyện cọp và quăng dây,

Bọn đánh trống và những bầy đô vật,

Làm mọi người thật hân hoan hạnh phúc.

 

C̣n thương nhân tấp nập tự đằng xa,

Nghe tin đản sanh đem tặng lắm quà

Trong mâm vàng, đầy khăn quàng, ngọc biếc,

Cây hương liệu, sắc trời chiều tơ dệt

Thật mỏng manh dẫu xếp mười hai tầng

Cũng không thể che khuôn mặt thẹn thùng,

Những chiếc váy được thêu đầy ngọc trắng,

Gỗ đàn hương từ thị thành phụ cận

Cung kính chào “Hoàng tử Sĩ-đạt-ta”(23),

“Toàn thành công” họ nói đúng tên kia.

 

Giữa khách lạ từ phương xa từng đám,

Một bậc Thánh tóc râu màu tro xám,

A-tư-đà (24), người có một đôi tai

Dài chấm đất, nghe âm hưởng từ trời,

Khi cầu nguyện dưới gốc cây sung măn (25).

Các Thiên thần đồng ca bài “Phật đản”,

Người tinh thông kiến thức bởi tu thiền,

Người đến gần, dáng điệu thật trang nghiêm,

Vua đảnh lễ và mẫu hoàng ra lệnh

Đưa hoàng nhi đặt dưới chân bậc Thánh.

Nhưng khi nh́n Thái tử, lăo Hiền nhân

Thốt tiếng kêu: “Đừng làm vậy, Nương nương!”

Và đặt khuôn mặt già nua lập tức

Tại chỗ ấy, tám lần người chạm đất,

Nói:” Ta xin đảnh lễ đấng Hài đồng!”

Ngài thật là vị cứu thế chính tông!

Với hồng quang (26), ḷng bàn chân có ấn (27),

Cuộn lông mềm, cuốn theo h́nh chữ Vạn (28),

Ba mươi hai tướng tốt của Thánh hiền,

Và tám mươi tướng phụ đă hiển nhiên (29)

Ngài quả thật chính là người Giác ngộ,

Ngài sẽ thuyết pháp lành và cứu độ

Những người nào được học pháp sau này,

Dù chẳng bao giờ ta được nghe Ngài,

V́ ta sắp phải ĺa đời quá sớm,

Ta trước đây chỉ mong ngày số tận,

Tuy nhiên nay ta đă thấy được Ngài.

Phải biết rằng, tâu chúa thường ở đời,

Đây chính Đóa Hoa trên cây nhân loại,

Hằng vạn năm mới nở ra sáng chói,

Nhưng nở rồi, làm tràn ngập thế gian

Với hương thơm của trí tuệ siêu phàm,

Và mật ngọt của tấm ḷng Từ ái,

Từ gốc rễ của Hoàng gia vĩ đại

Một đóa Hoa sen Thiên giới nở ra,

Ôi! Muôn vàn hạnh phúc hỡi Hoàng gia!

Tuy nhiên cũng chẳng hoàn toàn ân phước,

V́ một lưỡi gươm kia đành xuyên suốt

Cơi ḷng bà, do Thái tử ra đời,

Trong lúc bà, hỡi Chánh hậu tuyệt vời,

Được Thiên thần và loài người yêu quư

V́ đă sanh bậc Thánh nhân kỳ vĩ,

Nên từ đây bà quá đỗi thiêng liêng

Không thể nào c̣n chịu lắm ưu phiền,

Mà cuộc đời này chính là khổ hải,

Do vậy trong ṿng bảy ngày trở lại,

Lệnh bà không đau đớn dứt sầu bi”.

 

Việc xảy ra: ngày thứ bảy đêm kia,

Hoàng hậu Màyà mỉm cười say ngủ,

Và từ đấy, đức bà không đi nữa,

 

Thật hài ḷng lên cơi Đâu-suất đà (30)

Vô số Thiên nhân sùng bái đức bà,

Và hầu hạ Mẫu hoàng thành Thiên nữ.

C̣n Hoàng gia t́m mẹ nuôi Hoàng tử,

Đó chính là Di mẫu Go-ta-ḿ (31),

Bầu sữa thanh cao nuôi nấng Ấu-nhi,

Đôi môi ấy sẽ cứu toàn thế giới.

     

Như vậy theo truyền thuyết, tất cả chư Thiên và loài người đều hân hoan trước sự ra đời của Đức Phật, cho nên bốn vị Thiên Vương đă đích thân đem đoàn tùy tùng của ḿnh xuống vườn Lâm-t́-ni để khiêng kiệu hoa hộ tống Hoàng hậu và Thái tử hài nhi về kinh thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) cùng với đoàn người hầu cận vua, và bày tỏ sự hân hoan trước niềm hạnh phúc lớn lao của loài người hôm ấy.

  

CHÚ GIẢI :

 

(1) Tứ-Thiên-Vương (Catumahàrajika): Bốn vị Thiên vương ở cơi trời thấp nhất trên đỉnh núi Simeru (Tu-di).

(2) Sakya: Tên bộ tộc thuộc quyền cai trị của vua Suddodana.

(3) Himalaya: Tuyết sơn, vùng đồi núi cao nhất thế giới ở miền Bắc Ấn Độ và Nepal ngày nay.

(4) Suddodana (Tịnh Phạn Vương): Vị vua cai trị bộ tộc Thích-ca thời bấy giờ.

(5) Màyà (Ma-da): tên bà chánh hậu của vua.

(6) Voi trắng sáu ngà hay Hào quang sáu sắc: là biểu tượng của Đức Phật theo truyền thống kinh điển.

(7) Kàmaduk: Tên của vị thần tham dục theo truyền thuyết cổ Ấn Độ.

(8) Lumbini: Tên một hoa viên nằm trên đường đi của hoiàng hậu lúc bà sắp lâm bồn.

(9) Những người tiên tri đoán mộng giải thích rằng khi sao con Cua hội họp với mặt trời, hoàng hậu sẽ sinh một hoàng nam là bậc thánh hiền đại tuệ có thể ngự trị toàn thế giới hoặc sẽ xuất gia thành đạo sĩ chứng quả Giác ngộ và giải thoát loài người khỏi vô minh.

(10) Sala: cây hoa cao lớn ở vườn Lumbini, theo truyền thuyết, là nơi hoàng hậu đứng và sanh Thái tử.

(11) Hai gịng nước nóng và lạnh từ trời tuôn xuống để tắm hoàng hậu và Thái tử hài nhi theo truyền thuyết.

(12) Thái tử hài nhi có đủ ba mươi hai tướng tốt lành của một bậc Đại nhân theo khoa xem tướng ở cổ Ấn Độ.

(13) Bốn vị Đại Thiên Vương bảo hộ thế giới ngự trên đỉnh Tu-di là trung tâm của vũ trụ theo vũ trụ quan cổ Ấn Độ.

(14) Dhatarattha (Tŕ Quốc): Vị Thiên vương canh giữ phương Đông, có đoàn tuỳ tùng là các thần Gandhabba (Nhạc thần).

(15) Virulha (Tăng Trưởng): Vị Thiên vương canh giữ phương Nam, có đoàn tuỳ tùng là các thần Kumbhanda (Cưu-bàn-trà).

(16) và (17) Virupakkha (Quảng Mục): Vị Thiên vương canh giữ phương Tây, có đoàn tuỳ tùng là các thần Nàga (Long thần hay Xà thần).

(18) và (19) Kurera (Đa Văn): Vị Thiên vương canh giữ phương Bắc, có đoàn tuỳ tùng là các thần Yakkha (Thần Dạ-xoa, Đại lực).

(20) Chuyển luân vương (Cakkavatti): Vị vua cai trị toàn cầu bằng chánh pháp.

(21) Vua có đầy đủ bảy báu vật: bánh xe báu, ngọc báu, ngựa báu và nữ báu.

(22) Rạng đông: tên của một nữ thần trong thần thoại cổ Ấn độ.

(23) Siddhattha: tên của Thái tử có nghĩa là Toàn thành công, Toại nguyện.

(24) Asita: tên vị thánh ở vùng Tuyết sơn đă đắc các thắng trí (Abhinna: lục thông) và tám thiền chứng (jhàna), nhờ thiên nhĩ nghe tin các Thiên thần ca ngợi Đức Phật đản sanh, nên đă đến thăm Ngài tại hoàng cung và đảnh lễ Ngài khi thấy các tướng tốt của Ngài.

(25) Peepul hay pipala: một loại cây sung ở Ấn độ.

(26) Hào quang màu hồng ngọc.

(27) Ḷng bàn chân có dấu bánh xe.

(28) Lông cuốn theo h́nh chữ vạn (Svastika) là một tướng tốt trong 32 tướng chính.

(29) 80 tướng phụ của bậc Đại nhân theo khoa tướng số ở Ấn độ, có thể trở thành một vị Chuyển luân vương hay một bậc Giác ngộ để cứu đời.

(30) Theo truyền thống kinh điển, Hoàng hậu Màyà từ trần và tái sanh lên cơi trời Đâu-suất-đà (Tusita), chứ không phải cơi trời ba mươi ba (Tavatimsa) như trong thi phẩm này.

(31) Thứ phi Mahàpajipati Gotaḿ, em gái của chánh hậu Màyà, trở thành mẹ nuôi Thái tử từ đó và giao hài nhi mới sanh của bà là Hoàng tử Nanda cho một nhũ mẫu.

 

 

 

 

 

 

 

 


 
Bài vở đóng góp xin gửi về: baivochanhphap@gmail.com
Copyright © 2009 Chanh Phap Magazine
Last modified: 03/30/12